Đổi mới giáo dục, “nâng hạng” nguồn nhân lực
Trong hơn một thập kỷ qua, giáo dục Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – có kỹ năng, tri thức, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng linh hoạt. Trước yêu cầu của thời đại trí tuệ nhân tạo (AI), giáo dục Việt Nam cần phải tiếp tục đổi mới toàn diện từ tư duy, chương trình, phương pháp đến quản lý và cơ chế chính sách để thực sự trở thành nền tảng cho phát triển con người.

Điểm sáng về năng lực công nghệ
Kết quả Khảo sát quốc tế về dạy và học (TALIS) chu kỳ 2024 do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ghi nhận, đội ngũ nhà giáo Việt Nam được đánh giá là trẻ, nhiệt huyết, có năng lực công nghệ ngày càng tốt và mức độ hài lòng nghề nghiệp cao. 92% giáo viên Việt Nam cho rằng, nghề giáo được xã hội coi trọng - đạt tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ các quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia khảo sát - trong khi mức trung bình của OECD chỉ là 22%.
Một trong những "điểm sáng" đáng chú ý của TALIS 2024 là năng lực chuyển đổi số của giáo viên Việt Nam. Có tới 64% giáo viên đã sử dụng AI trong dạy học, đứng thứ 5 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia, cao hơn mức trung bình OECD (36%).
Tuy nhiên, 71% giáo viên cho biết trường học còn thiếu cơ sở hạ tầng và công cụ kỹ thuật số cần thiết để ứng dụng AI, cao hơn đáng kể so với mức trung bình OECD (37%).
Trong số những giáo viên chưa sử dụng AI trong giảng dạy, 60% cho rằng họ chưa có đủ kiến thức và kỹ năng để ứng dụng công nghệ này (OECD: 75%). Điều đó phản ánh nhu cầu cấp thiết về đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho đội ngũ giáo viên trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ.
Khảo sát TALIS 2024 được thực hiện ở 202 cơ sở giáo dục thuộc 58 tỉnh, thành phố, 202 hiệu trưởng và 4.410 giáo viên ở Việt Nam theo tiêu chuẩn kỹ thuật và bảo mật nghiêm ngặt của OECD, bảo đảm kết quả khách quan và đáng tin cậy.
Ghi nhận thực tế ở khắp các địa phương trên cả nước, phong trào chuyển đổi số đang được đội ngũ nhà giáo triển khai đồng bộ, hướng tới việc tạo dựng môi trường học tập tốt nhất, trang bị kỹ năng để người học sẵn sàng thích ứng trong thời đại kỷ nguyên số. Cô giáo Chung Thị Phương Thủy, Trường THPT Thạnh Lộc (TPHCM) với kinh nghiệm 30 năm trong nghề cho biết, trước đây nhắc tới nghề giáo là nói tới bảng đen, phấn trắng còn ngày nay, giáo viên với sự hỗ trợ của công nghệ đã tạo ra những tiết học đầy hứng thú với những bài giảng số hóa vừa có hình ảnh, video minh họa, thuyết minh sinh động hơn nhiều so với việc “giảng chay”, chỉ có sách giáo khoa, tài liệu tranh ảnh. Là giáo viên môn sinh học, cô Thủy ứng dụng AI vào việc hỗ trợ tạo giáo án, xây dựng video tình huống phù hợp với bài học, soạn trắc nghiệm…
“Công nghệ giúp tôi tăng năng suất công việc, tiết kiệm thời gian để tập trung quan sát học sinh, suy ngẫm và thiết kế trải nghiệm học tập cá nhân hoá cho học sinh hơn” – cô Thủy nêu lợi ích của việc ứng dụng công nghệ vào giảng dạy.

Không lạm dụng và phụ thuộc vào AI
Theo cô Thủy, AI không phải là “công cụ vạn năng”. Nhiều kiến thức sai lệch, những thông tin chưa được kiểm chứng… đều có thể gặp phải nên khi sử dụng, cần hết sức lưu ý. Bên cạnh đó, lạm dụng AI có thể khiến tạo ra những bài giảng chỉn chu, đúng phom mẫu nhưng chung chung, na ná nhau, không thấy được tư duy phản biện của giáo viên, không phù hợp với đối tượng học sinh đặc thù.
Là một chuyên gia với hơn 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, TS Giáo dục Nguyễn Thị Huyền, cố vấn các trường mầm non, phổ thông ngoài công lập chia sẻ nỗi trăn trở về vai trò của người thầy trong thời đại AI. Ngày nay, một câu lệnh, một giáo án hoàn chỉnh được tạo ra. Một câu lệnh, một tài nguyên học tập được tạo ra. Một câu lệnh, lời nhận xét của giáo viên dành cho học sinh được tạo ra.
Nhưng giáo dục không chỉ là truyền đạt thông tin, mà là rèn luyện tư duy. AI có thể tạo ra mọi giáo án, nhưng không thể dạy con người nghĩ kỹ, cảm sâu, và hành động có đạo đức. AI có thể chấm bài, nhưng không thể hiểu vì sao một bài viết vụng về lại quan trọng với hành trình trưởng thành của một đứa trẻ.
“Sự khác biệt của người thầy nằm ở năng lực hướng dẫn – truyền cảm hứng, xây dựng động lực – dẫn dắt đạo đức. Nói khác hơn, thời đại này, chúng ta cần giáo viên trở thành người có trách nhiệm hơn với những gì họ truyền đạt, định hướng cho học sinh. Đó là “trí tuệ sư phạm” mà không thuật toán nào có thể sao chép” – TS Nguyễn Thị Huyền nói.
Đây cũng là trăn trở của PGS.TS Hoàng Minh Sơn, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Làm sao để chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số, ứng dụng AI thực sự tác động, tạo ra thay đổi về năng suất dạy, năng suất học; xóa bỏ được các khâu, cấp trung gian trong hoạt động giáo dục và đào tạo? Thầy Sơn cho rằng, để thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục phải bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, phương pháp, cách thức quản lý giáo dục, quản trị nhà trường và trong dạy học.
Cải tiến chương trình, sách giáo khoa và phát triển đội ngũ nhà giáo
Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (ban hành kèm Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT) đánh dấu sự thay đổi từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực và phẩm chất người học. Trong đó tư duy, kỹ năng phản biện được xem là một trong những thành tố quan trọng của của năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đây cũng là công cụ quan trọng giúp thế hệ trẻ nhận diện đúng sai, tránh bị dẫn dắt bởi tin giả, định kiến và trào lưu lệch chuẩn.
Tri thức thay đổi nhanh chóng nên việc học không giới hạn ở trong lớp học, dừng lại ở trường, học với thầy cô mà có thể học trên các nền tảng trực tuyến, học mọi lúc, mọi nơi. Điều đó, đòi hỏi tinh thần tự học, tự tìm tòi, sáng tạo và học suốt đời. Người học cần chủ động hơn, không thụ động chờ đợi sự truyền đạt của thầy cô mà phải liên tục cập nhật thông tin một cách có chọn lọc từ các nguồn khác nhau. Học không chỉ để thi, mà để hiểu, để làm, để phát triển bản thân và đóng góp cho xã hội.
Các chuyên gia nhận định, việc đổi mới này đòi hỏi phải thay đổi tư duy từ cấp quản lý đến giáo viên và phụ huynh, đồng thời xây dựng chương trình giáo dục linh hoạt, mở, khuyến khích người học phát huy khả năng cá nhân thay vì học thụ động, rập khuôn. Từ năm học 2026-2027, cả nước sử dụng thống nhất một bộ sách giáo khoa nhưng vẫn nên tham khảo các bộ sách giáo khoa khác nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục tốt nhất.
Ông Nguyễn Đắc Vinh, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội cho rằng, việc thống nhất dùng chung một bộ sách giáo khoa không có nghĩa là triệt tiêu sáng tạo. Giáo viên vẫn có thể tham khảo các tài liệu khác để hỗ trợ giảng dạy, làm phong phú thêm bài giảng và giúp học sinh tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn. Trong đó, làm sao để 3 bộ sách giáo khoa đã được thẩm định và đang được sử dụng gồm Cánh diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống vẫn có thể phát huy hiệu quả trong dạy học, không lãng phí.
Cùng với đó là hệ thống học liệu mở từ kế hoạch bài dạy, bài giảng điện tử, các clip minh hoạ… liên tục được bổ sung, cập nhật sẽ giúp giáo viên có kho tài nguyên và công cụ để cá nhân hóa bài giảng, phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với đặc thù vùng miền, từ đó sẽ giúp giáo viên linh hoạt điều chỉnh, nâng cao chất lượng dạy học.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga đề xuất, cần nghiên cứu việc giảm tải chương trình với bộ sách giáo khoa dùng chung. Lý do là nhiều giáo viên phản ánh đang có sự vênh nhau giữa yêu cầu đạt được của chương trình cải cách sách giáo khoa với thời gian giảng dạy trên lớp. Giáo viên khó dạy kỹ, dạy được hết nội dung trong phân phối chương trình trong thời gian học chính khóa.
Bà Nga cũng khẳng định, giáo viên là yếu tố trung tâm của mọi đổi mới giáo dục. Trong bối cảnh mới, đội ngũ này cần được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, kỹ năng sư phạm hiện đại và năng lực ứng dụng công nghệ số. Cần xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút người giỏi vào nghề giáo, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong giảng dạy.
Song song, đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cần được nâng cao năng lực lãnh đạo, quản trị, nhất là khả năng hoạch định chiến lược, phân tích dữ liệu và ra quyết định dựa trên bằng chứng. Khi người dạy và người quản lý đều có tầm nhìn đổi mới, hệ thống giáo dục sẽ vận hành hiệu quả và linh hoạt hơn.
Thúc đẩy hợp tác 3 nhà
Theo số liệu của Cục Thống kê, trong quý III năm 2025, Việt Nam có hơn 1,6 triệu thanh niên từ 15-24 tuổi không có việc làm, không tham gia học tập hay đào tạo – chiếm 11,5% tổng số thanh niên cả nước. Nguyên nhân chính, theo cơ quan thống kê, là do nhiều thanh niên vừa tốt nghiệp đại học, cao đẳng hoặc trung cấp, đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ môi trường giáo dục sang việc làm. Đó là chưa kể rất nhiều sinh viên ra trường không tìm được việc đúng chuyên ngành, hoặc phải chấp nhận làm trái nghề, thu nhập thấp.
Bên cạnh nguyên nhân chủ quan từ phía người lao động, vấn đề phân luồng giáo dục, tâm lý coi trọng bằng đại học hơn học nghề và hệ thống đào tạo chưa gắn với thực tiễn cũng được đề cập. Ông Nguyễn Hữu Hiệu - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần FiinGroup cho rằng, hiện vẫn tồn tại nhiều bất đối xứng giữa đào tạo và nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Nhiều sinh viên thiếu kỹ năng và kinh nghiệm thực hành. Một số sinh viên sử dụng AI nhưng chưa thực sự hiểu cách hoạt động của công nghệ này. Có những sinh viên kỳ vọng được doanh nghiệp đào tạo khi vào làm, trong khi phía doanh nghiệp lại mong muốn nhân sự có thể làm việc ngay từ đầu.
TS Trần Nam Tú, Phó Cục trưởng Cục Khoa học, Công nghệ và Thông tin, Bộ Giáo dục và Đào tạo thông tin, tại Việt Nam, tiến trình phát triển mô hình 3 nhà (Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp) đã trải qua nhiều giai đoạn: từ khởi phát trước năm 2010 với hợp tác đơn lẻ và đào tạo nặng lý thuyết, chuyển sang giai đoạn hình thành khung chính sách (2010-2015) gắn kết trường – doanh nghiệp – Nhà nước, và tiếp tục mở rộng và thể chế hóa (2016-2020) với chương trình đào tạo gần nhu cầu do-anh nghiệp.
Hiện nay, các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp đều chú trọng đẩy mạnh đào tạo gắn với thị trường lao động thông qua việc tăng cường gắn kết với doanh nghiệp, rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo theo nhu cầu thực tế, ưu tiên đào tạo các ngành trọng điểm và đầu tư cơ sở vật chất hiện đại. Mục tiêu là thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và việc làm, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ ra mô hình hợp tác ba nhà được triển khai đa dạng và hiệu quả ở nhiều quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản… Ông Vinh đề xuất, cần tạo cơ chế “đặt hàng” từ doanh nghiệp đến nhà trường theo hướng doanh nghiệp nêu bài toán – nhà trường nghiên cứu và đề xuất giải pháp, phối hợp để cùng doanh nghiệp giải quyết bài toán, tạo ra sản phẩm và giải pháp cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết với thực hành, giữa đào tạo trong giảng đường với thực tiễn sản xuất để nâng cao chất lượng đào tạo, hình thành nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động thời đại số.

Từ nay đến khoảng 10-15 năm sau là giai đoạn cần đưa AI trở thành nhân tố đồng hành với giáo dục đại học, không phải là cạnh tranh hay phủ định AI. Để hiện thực hóa tầm nhìn đó, có ba điểm then chốt cần thực hiện. Đó là cần đổi mới mạnh mẽ về cách tiếp cận giáo dục, chuyển từ truyền tải tri thức sang thúc đẩy sự sáng tạo và khả năng tự thích ứng. Vì sự sáng tạo và khả năng tự thích ứng là những điều mà công nghệ khó có thể sao chép được con người.
Tiếp theo là đổi mới mạnh mẽ về chương trình đào tạo, tích hợp
AI vào tất cả chương trình đào tạo, không dừng lại ở các ngành kỹ thuật và công
nghệ, mà còn bao gồm các ngành kinh tế, xã hội, nghệ thuật và nhân văn.
Thứ ba là tích cực kiến tạo sự hợp tác để hình thành hệ sinh
thái cho sự đổi mới không ngừng. Như vậy mới có thể làm cho giáo dục đại học
thích ứng được với những biến đổi rất nhanh chóng do AI thúc đẩy.
Công nghệ AI do con người tạo ra, đồng hành cùng hoạt động của
con người, phục vụ con người, nên sự cam kết về sử dụng công nghệ với các
nguyên tắc đạo đức là một yêu cầu quan trọng của kỷ nguyên ứng dụng AI. Mục
tiêu của giáo dục luôn phải là các giá trị đạo đức và nhân văn của con người.
Để giúp cho người học có nền tảng vững chắc, tự tin làm việc
trong kỷ nguyên AI, các cơ sở giáo dục đại học cần phát triển các chương trình
đào tạo tài năng về AI, thúc đẩy hợp tác với các chuyên gia quốc tế và tạo ra
các lộ trình học thuật rõ ràng về AI. Từ đó, người học có thể làm chủ công nghệ
AI, phục vụ cho công việc của mình
Bên cạnh đó, cần mở rộng các chương trình thực hành phù hợp
với nhu cầu thị trường. Trong khi sức mạnh của AI tập trung vào tri thức, thì
các chương trình đào tạo gắn liền với thực tập và các dự án thực tế sẽ trang bị
cho sinh viên năng lực giải quyết vấn đề.
Phải đào tạo sinh viên dựa trên nhu cầu của thị trường lao động
và liên tục cập nhật chương trình giảng dạy AI. Khi các chương trình đào tạo
bám sát nhu cầu của nhà tuyển dụng, hình thành nền tảng là tư duy phản biện và
các kỹ năng phù hợp cho người học, thì họ sẽ vững vàng trong kỷ nguyên công nghệ
AI.

Cô giáo Phùng Thị Thu Trang – Phó Hiệu trưởng Trường THCS Nguyễn Du (Thái Nguyên) cho rằng trong kỷ nguyên số, học sinh không chỉ học trong lớp mà còn “sống” trong không gian mạng. Vì vậy, giảng dạy, giáo dục không thể tách rời công nghệ.
Để là người truyền dẫn dắt, truyền cảm hứng tới thế hệ học sinh “sinh ra cùng Internet”, cô Trang cho rằng người giáo viên không chỉ dạy học với bảng đen phấn trắng như truyền thống trước đây mà còn cần trang bị cho mình kỹ năng sư phạm số, khả năng truyền tải qua công cụ số và phù hợp với cách tiếp cận tri thức của học sinh thời đại 4.0, giúp học sinh từ người thụ động thành người sáng tạo và lan tỏa tri thức, giá trị nhân văn.
Chia sẻ thực tế tại Trường THCS Nguyễn Du, cô Trang cho biết công tác chuyển đổi số luôn được nhà trường quan tâm tập huấn tới đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh. Nhà trường đã xây dựng các kênh truyền thông chính thống gồm fanpage, website, tiktok, trang Liên đội, nhóm zalo lớp học đăng tải các sản phẩm “made by teen” – video để kết nối mọi học sinh, phụ huynh trong trường. Đến nay, trong hoạt động giảng dạy, giáo viên đã có nhiều ứng dụng AI trong bài giảng như thiết kế video ngắn bằng AI, trò chơi AI, bài giảng Elearning lồng ghép nội dung cần truyền đạt. Nhà trường thu thập dữ liệu học sinh qua Google Form, xử lý bằng công cụ phân tích AI đơn giản và đạt hiệu quả
cao.
“Công nghệ và AI không thay thế được người thầy, nhưng giúp người thầy mạnh mẽ hơn, sáng tạo hơn và chạm tới trái tim học trò dễ dàng hơn” – cô Phùng Thị Thu Trang khẳng định.