Tuyên Quang: Nỗ lực đẩy lùi tình trạng tảo hôn và hôn nhận cận huyết thống
Tuyên Quang sau sáp nhập có diện tích tự nhiên 13.795,50 km², dân số trên 1,86 triệu người, với hơn 70% là đồng bào DTTS. Đây là địa bàn rộng, dân cư phân tán, phong tục tập quán đa dạng – cũng là nơi mà tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống (TH-HNCHT) từng diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh đó, Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh giữ vai trò nòng cốt tham mưu, tổ chức, điều phối các giải pháp nhằm từng bước đẩy lùi vấn đề này một cách bền vững.
Tăng cường tham mưu, hoàn thiện cơ chế và kế hoạch hành động
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 498/QĐ-TTg và các văn bản hướng dẫn của Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo), Sở Dân tộc và Tôn giáo đã tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, Kế hoạch tổ chức thực hiện Đề án giảm thiểu tình trạng TH-HNCHT trên địa bàn tỉnh. Hằng năm, Sở đều ban hành kế hoạch thực hiện Đề án và Tiểu dự án 2 thuộc Dự án 9 của Chương trình MTQG phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Đồng thời, hướng dẫn UBND cấp huyện và UBND cấp xã thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo phòng, chống TH-HNCHT trong đồng bào DTTS ở địa phương; ban hành quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ rõ ràng, tạo sự thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo ở cơ sở.

Đặc biệt, Sở Dân tộc và Tôn giáo giữ vai trò nòng cốt trong kết nối và điều phối hoạt động giữa các sở, ngành, đoàn thể và địa phương. Cơ quan đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Sở Tư pháp, Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo, Bộ đội Biên phòng cùng UBND các huyện, thành phố để triển khai truyền thông, tập huấn kiến thức và kỹ năng tư vấn pháp luật về hôn nhân và gia đình cho đội ngũ cán bộ cơ sở và cộng tác viên tại thôn, bản.
Sở đồng thời tham gia xây dựng và duy trì các mô hình điểm tại xã, trường học; phối hợp với Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, MTTQ, Trung tâm Dân số, Phòng Tư pháp, Phòng Văn hóa, Phòng Giáo dục và các đoàn thể cấp huyện để tổ chức thực hiện đồng bộ các hoạt động của Đề án.
Hằng năm, Sở Dân tộc và Tôn giáo chủ động xây dựng chương trình và kế hoạch phối hợp liên ngành, tham mưu triển khai hiệu quả chính sách dân tộc và Chương trình MTQG phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn toàn tỉnh.
Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng
Các hoạt động truyền thông được triển khai đồng bộ, đa dạng hình thức: hội nghị, giao lưu văn hóa, tuyên truyền tại chợ phiên, họp thôn bản, phát thanh cơ sở, ngoại khóa tại hệ thống trường PTDT nội trú, PTDT bán trú. Sở Dân tộc và Tôn giáo xây dựng chuyên mục, tài liệu số trên Trang thông tin điện tử; phối hợp Đài PT-TH tỉnh thực hiện chuyên mục truyền thanh, kịch truyền thanh; sản xuất phóng sự, video tuyên truyền.
Trong giai đoạn 2015-2025, toàn tỉnh đã thực hiện hơn 1.700 buổi tư vấn, vận động cho gần 31.000 lượt người; phát hành hơn 10.000 tài liệu, tờ gấp; cung cấp 1.469 áp phích; sản xuất phim tài liệu, tiểu phẩm; tổ chức các cuộc thi tuyên truyền trong học sinh;… Đây là những hoạt động có tác động trực tiếp tới nhận thức giới trẻ – nhóm có nguy cơ cao liên quan đến tảo hôn.
Một trong những kết quả nổi bật là Sở Dân tộc và Tôn giáo đã phối hợp các sở, ngành, MTTQ và các đoàn thể xây dựng và duy trì 24 mô hình điểm (giai đoạn 2016-2021). Các mô hình thành lập Ban Chỉ đạo, Câu lạc bộ “Phòng chống TH-HNCHT”, câu lạc bộ Tiền hôn nhân tại trường học, từ đó giúp các em học sinh nâng cao nhận thức và biết cách bảo vệ mình trước vấn nạn TH-HNCHT.
100% hộ gia đình và học sinh tại mô hình đều ký cam kết không vi phạm TH-HNCHT. Nhiều thôn, bản đã bổ sung các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình vào hương ước, quy ước, tạo ràng buộc cộng đồng để phòng ngừa vi phạm ngay từ cơ sở. Cùng với đó, MTTQ các cấp đã chỉ đạo xây dựng hơn 100 mô hình, câu lạc bộ liên quan, tạo mạng lưới truyền thông cộng đồng rộng khắp.

Khi được hỏi về độ tuổi kết hôn hay các hệ lụy của việc kết hôn sớm, em Phàn Thị Hằng, học sinh lớp 9A, trường PTDTBT Tiểu học – THCS Đức Xuân, xã Liên Hiệp, trả lời mạch lạc và chính xác, thể hiện sự hiểu biết về Luật Hôn nhân và Gia đình.
“Em hiểu rằng không nên yêu sớm; khi đủ tuổi theo quy định mới được kết hôn. Nếu gặp vấn đề liên quan đến xâm hại, em sẽ báo ngay cho thầy cô hoặc gia đình”, Hằng nói.
Sở Dân tộc và Tôn giáo chủ trì phối hợp Hội Phụ nữ, Sở Tư pháp, Chi cục Dân số… tổ chức 77 hội nghị tập huấn tại tại các xã, đơn vị xây dựng mô hình; tổ chức các đoàn học tập kinh nghiệm tại các tỉnh bạn dành cho thành viên Ban Chỉ đạo và tổ tư vấn thôn, bản.
Công tác kiểm tra, đánh giá được duy trì thường xuyên. Tỉnh đã tổ chức 5 đoàn kiểm tra và nhiều cuộc kiểm tra lồng ghép với triển khai chính sách dân tộc và các dự án thuộc Chương trình MTQG. Hoạt động giám sát của MTTQ và tổ chức thành viên góp phần tăng tính minh bạch, khách quan.
Nhận thức cộng đồng chuyển biến tích cực
Theo bà Hoàng Thị Thắm, Phó Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Tuyên Quang, trong quá trình triển khai Quyết định 498/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của cấp ủy, chính quyền các cấp và sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Đây là yếu tố quan trọng bảo đảm Đề án “Giảm thiểu tình trạng TH-HNCHT trong vùng đồng bào DTTS giai đoạn 2015–2025” được triển khai thống nhất và hiệu quả trên địa bàn tỉnh.

Nhờ đó đã tạo chuyển biến rõ rệt trong nhận thức của người dân về hôn nhân và gia đình, đặc biệt tại các xã, thôn bản được chọn làm mô hình điểm. Thông qua hoạt động truyền thông, nâng cao năng lực, sinh hoạt câu lạc bộ; việc bổ sung quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình vào hương ước, quy ước; cũng như ký cam kết giữa các hộ dân với chính quyền và giữa học sinh – gia đình – nhà trường, tình trạng TH-HNCHT tại các mô hình này đã giảm đáng kể.
Từ năm 2015 đến 2025, toàn tỉnh có 102.452 cặp kết hôn, trong đó tảo hôn chiếm 5.265 cặp và kết hôn cận huyết thống là 82 cặp. Riêng giai đoạn 2021-2025, số cặp tảo hôn giảm xuống còn 1.396 và chỉ còn 12 cặp kết hôn cận huyết thống – giảm mạnh so với giai đoạn 2015-2020, khi có tới 3.869 cặp tảo hôn và 70 cặp kết hôn cận huyết thống. Tại các mô hình điểm, tình trạng vi phạm gần như không còn. Điều quan trọng hơn là nhận thức cộng đồng thay đổi rõ rệt, phong tục lạc hậu từng bước được đẩy lùi.