Phần lớn lao động nữ di cư làm việc không có hợp đồng, điều này đồng nghĩa với việc họ không được hưởng các quyền lợi về an sinh xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Cùng với đó, thu nhập bấp bênh buộc họ phải chọn lựa nơi ở giá rẻ, không an toàn.
Mặc dù đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu lao động nhưng dưới tác động của dịch Covid-19, lao động di cư là đối tượng dễ tổn thương nhất. Họ phải đối mặt với nhiều áp lực, lớn nhất là mất việc làm vì giãn cách xã hội.
Các chuyên gia Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2012-2020 xác định rõ người lao động di cư là một trong các nhóm yếu thế cần được hỗ trợ. Trong đó, lao động di cư cần được công nhận và ghi nhận trong các văn kiện chiến lược quốc gia thay vì coi lao động di cư là một hiện tượng cần kiểm soát.
Ngày 2/8, tại TP Đà Nẵng, Hội nghị quan chức cao cấp về lao động Campuchia, Lào, Myanma, Việt Nam, Thái Lan (gọi tắt là CLMTV) với chủ đề “Thúc đẩy nguồn nhân lực và việc làm bền vững cho người lao động di cư” đã chính thức khai mạc.
Làm thế nào để lao động di cư tiếp cận được an sinh xã hội? Đây là vấn đề rất đáng lưu tâm, nhất là khi lao động di cư ngày càng có xu hướng gia tăng. Để đảm bảo quyền lợi cho lao động di cư thì giải pháp xây dựng một cơ chế, chính sách riêng cho nhóm này cũng phải được tính đến.
Là lực lượng đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế song nhiều báo cáo gần đây chỉ ra rằng, có tới 90%người lao động di cư không được tiếp cận tới các dịch vụ an sinh xã hội và các chính sách công tại nơi đến. Thực tế này làm ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng cuộc sống và quyền của lao động di cư, đặc biệt là phụ nữ vì có hơn 80% người lao động di cư có đem theo con tới nơi đến, và không có chính sách riêng biệt về y tế và giáo dục dành cho các nhóm con của người di cư.
Di cư lao động quốc tế là quy luật khách quan toàn cầu, do đó việc thực hiện các giải pháp quản lý không nên máy móc, cứng nhắc mà cần chuyển từ hình thức di cư lao động không an toàn thành di cư an toàn, nhất là đối với phụ nữ.
Theo kết quả khảo sát của ngành lao động và công an tại 10 địa phương giáp biên giới phía Bắc, từ năm 2011 đến nay đã có trên 20 vạn người đi lao động thời vụ tại Trung Quốc, trong đó nữ chiếm tới 60%. Trong khi đó, giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa có thỏa thuận về việc hợp tác lao động.