Nồi xà bần của mẹ
Người ta mơ sơn hào hải vị, mơ thịt cá ngọt lành, mơ cơm dẻo canh thơm, mơ yến sào sâm quý.

Tôi lại mơ bình dị, mơ“ nồi xà bần” của mẹ những ngày xưa.
“Xà bần” không phải gạch đá vôi vữa xả ra từ bao ngôi nhà cũ đập đi để xây nhà mới, mà là một món ăn, món ăn đặc biệt, là một nồi to bao gồm đồ ăn thừa đổ chung vào, hâm lên, món ăn hỗ lốn của những đứa trẻ nhà nghèo.
Ngày đó, nhà tôi rất nghèo, cơm còn không đủ ăn nên thức ăn đối với chị em tôi là một điều vô cùng xa xỉ. Chỉ những khi giỗ chạp hay có khách thì trong chái bếp mới len ra mùi thơm của những món ăn hấp dẫn thơm ngon: có gà luộc, có củ hành muối, có chả giò, có giò lụa, có thịt ba chỉ kho nước dừa và hột vịt, có canh thịt bằm trộn mộc nhĩ nhồi mướp đắng, có xu hào xào, ôi chao là hấp dẫn.
Chị em tôi thích cảm giác được lăng xăng quanh bếp phụ mẹ, thích được mẹ sai việc này việc kia, cái chính là để được ngửi mùi gà luộc quyện lá chanh thơm lừng, mùi thịt kho nước dừa với hột vịt thơm ngầy ngậy, mùi thơm của củ hành tím sém vàng trên chảo dầu sóng sánh, thích ngắm nghía từng cuốn chả giò vàng khúm vừa mới chiên...
Chỉ hít hà những mùi thơm ấy thôi là tôi liền có cảm giác như mình đã trở thành cô công chúa đang được thưởng thức một bữa tiệc ở hoàng cung trong các câu chuyện cổ tích vậy.

Đặc biệt mẹ bày biện rất đẹp, trông mâm cỗ như một bức tranh và mẹ tôi chính là họa sĩ.
Khách đến đông vui nói cười rôm rả. Cha cúng tổ tiên vừa xong, nhang đã tàn, giấy vàng đã hóa. Mẹ xá lễ và mọi người cùng quây tròn ấm cúng bên mâm cỗ đủ đầy.
Chúng tôi cũng được tham gia vào bữa tiệc thịnh soạn đó, nhưng không ai bảo ai, cả năm chị em đều “ ăn nhín” những món ngon, và là chân sai vặt của người lớn khi thiếu gia vị.
Có lẽ cha mẹ tôi dạy con khá kỹ, cũng có thể do hoàn cảnh gia đình tôi lúc ấy quá nghèo nên việc nhường khách ăn trước đã là một điều hiển nhiên, hoàn cảnh đã tạo nên chúng tôi thành những đứa trẻ hiểu chuyện như thế.
Sau khi khách về, trên mâm cỗ còn lưa thưa vài miếng gà xương xẩu, vài miếng thịt nhiều mỡ, những miếng giò lụa phần rìa còn dính màu xanh của lá chuối vườn sau, những khoanh mướp đắng phần đầu đuôi chỉ nhún nhít vài tí thịt dính vào, dư nhiều nhất có lẽ là xu hào xào, nước canh và nước kho thịt béo ngậy.
Mẹ cẩn thận gom những đồ ăn còn dư lại vào một nồi, rồi hâm lên để dành cho cả gia đình ăn những ngày sau đó, chúng tôi vẫn thường gọi là “ nồi xà bần thần thánh” của mẹ.
Lúc ấy đói quá, thèm quá, nên dù là đồ thừa trộn vào thập cẩm thì với chúng tôi đó luôn là một bữa tiệc sang trọng. Chỉ cần mẹ hâm nóng lên thôi, mùi thơm của đồ ăn đã làm cái bụng đói của tôi ùng ục cồn cào. Cắn một miếng khoai, húp một thìa nước xáo, thêm chút thịt mỡ heo... Chao ôi, từng tế bào trong cuống lưỡi tôi cứ tung tăng nhảy múa. Từng dòng nước miếng ừng ực kéo về dọn đường cho củ khoai nứt khô trôi xuống bụng dễ dàng.
Vậy mà nồi xà bần ấy gia đình tôi còn dành dụm ăn thêm được vài ngày nữa mới hết, ai cũng một tâm trạng hưởng thụ phấn khởi vô cùng.
Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng mẹ thở dài, thỉnh thoảng thấy mắt mẹ đỏ hoe, thỉnh thoảng thấy cha vỗ vỗ vào bờ vai run run của mẹ, thỉnh thoảng mẹ vuốt tóc tôi, ôm vào lòng.
Tôi ngây thơ nào có để tâm...
Vậy mà 5 chị em tôi cũng học hành, đỗ đạt, rồi rời xa quê hương, xa gốc lúa, rửa sạch bàn chân dính phèn để tìm cuộc sống mới ở phố thành, chớp mắt đã hai mươi năm.
Giờ đây, tuy đã có cuộc sống đủ đầy nhưng tôi vẫn luôn duy trì một thói quen “vừa đủ” trong mâm cơm của gia đình, không có đồ ăn thừa, mọi người không phải ăn đồ hâm đi hâm lại nữa.
Nếp sống ấy một phần để đảm bảo bữa ăn chất lượng an toàn cho các con, một phần cũng dạy con biết trân quý đồ ăn, học cách tiết kiệm và chi tiêu hợp lý. Bởi lẽ, để có được như ngày hôm nay thật không dễ dàng...
Sáng nay Sài Gòn bất chợt mưa, bất chợt se lạnh, nhịp sống vội vã bất chợt nhẹ đi, chậm lại. Mưa tháng Tám dịu dàng như mang về trong trái tim chai sạn mưu sinh cả bầu trời ký ức tưởng chừng đã ngủ quên từ rất lâu rồi. Ký ức mà ở đó có cha, có mẹ, có chái bếp liêu xiêu lợp bằng lá cọ, có nồi xà bần ngát thơm và 5 chị em chúng tôi đang xúm xít, hít hà...