Ngành dệt may “khát” vốn cho chuyển đổi xanh
Đối mặt với làn sóng công nghệ xanh, doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam đang gặp không ít khó khăn, thách thức từ yêu cầu về tiêu chuẩn phát thải, ESG, truy xuất nguồn gốc nhưng cũng mở ra cơ hội tái cấu trúc.
Hiện trạng
Số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho thấy, hiện nay chỉ có khoảng 10% doanh nghiệp (DN) dệt may, trong đó chủ yếu là DN lớn triển khai tốt các tiêu chuẩn chuyển đổi xanh và môi trường - xã hội - quản trị doanh nghiệp (ESG). Khoảng 20% DN đã ứng dụng chuyển đổi số ở mức độ khác nhau. Còn phần lớn DN nhỏ và vừa mới chỉ dừng ở mức nhận thức và chuẩn bị. Trong khi đó, theo ông Phạm Văn Việt - Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may thời trang TPHCM, trước làn sóng cách mạng xanh toàn cầu, ngành dệt may đang chịu áp lực ngày càng lớn từ các thị trường xuất khẩu chủ lực như Mỹ, EU, Nhật Bản. Các thị trường này siết chặt tiêu chuẩn phát triển bền vững, bao gồm yêu cầu về ESG, kinh tế tuần hoàn, sản phẩm xanh và phát thải carbon.
Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) nhấn mạnh, sản xuất xanh giúp DN kiểm soát năng lượng, nước, hóa chất, tiết kiệm chi phí, cũng như giảm tác động môi trường.
Chia sẻ dưới góc độ DN, CEO Trần Văn Quy của Công ty TNHH Dệt may Trung Quy cho biết, từ năm 2016, công ty này đã đón đầu xu hướng xanh hóa với máy móc thân thiện như sợi hữu cơ, tái chế và sinh học từ tre, sen, dứa, cà phê, lông cừu... Đơn vị còn áp dụng công nghệ nhuộm gió, tiết kiệm 60-70% nước và giảm tác động môi trường. Trung Quy cũng đầu tư hệ thống điện mặt trời và lò hơi Bio - mass để giảm phát thải. Hiện nguyên liệu thân thiện tại DN này chiếm 50% sản xuất, và đặt mục tiêu đạt 70% vào cuối năm 2025.
Vậy nhưng theo CEO dệt may Trung Quy, hiện các DN vẫn gặp nhiều thách thức khi chuyển đổi sang mô hình sản xuất xanh. Nguyên liệu thân thiện với môi trường thường có giá thành cao và khó tìm, trong khi sản xuất bền vững lại yêu cầu công nghệ tiên tiến, chi phí đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và phải tuân thủ các tiêu chuẩn của hệ sinh thái khắt khe. Hơn nữa, nhận thức và khả năng chi trả của người tiêu dùng cho sản phẩm bền vững vẫn còn hạn chế, làm giảm sức cạnh tranh của DN trong ngắn hạn.
Đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị
Giới chuyên gia kinh tế khuyến cáo, những DN đang có đơn hàng sang EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc buộc phải chuyển đổi sớm, bởi đến năm 2026, EU sẽ áp dụng cơ chế thuế carbon triệt để. Dự báo đến năm 2030, khoảng 50% DN mới có thể thích ứng được. So với một số quốc gia, DN Việt Nam vẫn thua về công nghệ, quản trị và tự động hóa.
Hiện vướng mắc lớn nhất của các DN ngành dệt may là thiếu vốn đầu tư trung và dài hạn. Đầu tư xanh cần dòng vốn lớn, trong khi chúng ta vẫn thiếu cơ chế và tiêu chí cụ thể để DN dễ tiếp cận. Ngoài ra, khoảng cách công nghệ cũng là rào cản.
Ông Trần Như Tùng - Phó Chủ tịch Vitas cho biết, trong 8 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 30,7 tỷ USD. Nếu duy trì mức 4 tỷ USD/tháng trong những tháng cuối năm, toàn ngành có thể cán đích 48 tỷ USD. Theo ông Tùng, khó khăn lớn nhất hiện nay là yêu cầu chuyển đổi xanh và chuyển đổi số. Chỉ khoảng 20-25% DN đủ khả năng đầu tư công nghệ xanh. Nếu không đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe, đặc biệt từ thị trường châu Âu, DN khó giữ đơn hàng.
Đối với những DN mới bước vào lộ trình xanh, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may thời trang TPHCM Phạm Văn Việt khuyến nghị nên ưu tiên những hạng mục khả thi và hiệu quả trước mắt như: Đầu tư điện mặt trời khi có thể hoàn vốn nhanh, tiết kiệm khoảng 30% so với điện lưới; ứng dụng công nghệ 4.0 trong thiết kế, mô phỏng 3D, sản xuất tự động… giúp tăng năng suất 2-3 lần so với phương thức truyền thống. Tuy nhiên, riêng với ngành nhuộm, đầu tư dây chuyền công nghệ cao cần vốn từ 10 - 100 triệu USD mới đạt chuẩn quốc tế. Hiện phần lớn DN chỉ có thể nâng cấp từng phần phù hợp khả năng tài chính, do thiếu nguồn lực để đầu tư đồng bộ. Ông Việt cho rằng, liên kết trong chuỗi giá trị sẽ là yếu tố quyết định. Bởi khi đó các DN liên kết và cùng chuyển đổi xanh, ngành dệt may Việt Nam mới có thể nâng tầm trên thị trường quốc tế.