Báo Đại đoàn kết Văn hóa

“Khen cho nó chết”

Báo Đại đoàn kết Tăng kích thước chữ

“Khen cho nó chết”

Báo Đại đoàn kết trên Google News

Ngày nọ đến dự buổi giới thiệu một cuốn sách mới xuất bản, tôi chú ý tới bài phát biểu của một ông bạn. Cầm văn bản trong tay, ông đọc lên những câu chữ véo von, trầm bổng, du dương, mà tựu trung là để khẳng định tác phẩm được giới thiệu xứng đáng là tuyệt tác, một bước tiến bất ngờ của tác giả. 

Ông dứt lời, cử tọa vỗ tay rào rào. Chờ ông bạn phát biểu xong đi xuống, tôi đến ngồi bên thì thào: “Ông viết bài đánh giá rất hay nhưng ông chưa đọc sách!”. Ông bạn quay sang nhìn tôi trừng trừng rồi bảo: “Tôi phải đọc thì mới phát biểu được chứ!”. Tôi cười khì khì, trả lời: “Ông đọc rồi mà không dẫn ra được một dẫn chứng nào từ cuốn sách. Mấy lời véo von ấy có thể sử dụng để nhận xét nhiều cuốn sách khác nhau mà không cần đọc!”. Cuối cùng ông bạn cười hì hì, nói nhỏ: “Tôi đọc 3 truyện”. Tôi trả lời luôn: “Tập có 11 truyện, ông mới đọc 3 truyện mà đã nhận xét được như thế, xin bái phục!”. Ông bạn im lặng không nói gì. Có khi hắn không thèm chấp tôi cũng nên!

Chắc là vì hiện tượng như ông bạn tôi không hiếm mà còn khá phổ biến, nên làng văn nghệ lâu nay mới tổng kết, lưu truyền câu… “khen cho nó chết!”. Cái sự tổng kết đượm màu sắc khôi hài đó xem ra cũng có lý. Bởi căn cứ vào sự quan sát của riêng tôi, sau khi được khen bốc trời lại có nhiều tác phẩm biến đâu mất, chẳng mấy người đề cập, thậm chí cả tác giả cũng mất tăm hơi. Nghĩ về cái câu “khen cho nó chết”, tôi suy đoán trên hai phương diện. Một là: sau khi được khen nức nở, tác giả tự thấy “đứa con tinh thần” của mình xứng đáng xếp hạng số zách, tài năng của mình không phải dạng vừa, rồi kiêu hãnh với tý tài năng (nếu đích thực có tài năng) mà không tiếp tục làm ra tác phẩm khả dĩ hơn, để rồi kiêu ngạo, tự mãn, phát ngôn như “đại gia”, không biết đang làm trò cười cho thiên hạ; và như thế, dần dà “chết” về mặt nghề nghiệp. Hai là: sau khi tác phẩm được khen nức nở, có vài ba kẻ vốn không tin cậy mấy lời có cánh đã công bố (như tôi chẳng hạn!) liền tìm đọc và phát hiện sự sai chênh, hay có sự không tương ứng giữa những lời ca ngợi với giá trị của tác phẩm, rồi viết bài chứng minh lời khen là “bốc thơm không phải lối”, “đánh lừa công chúng”. Vậy là lời có cánh bỗng chốc biến thành sáo rỗng, tác phẩm trở về với “cái máng của vợ ông lão đánh cá”, làm cho tác giả nếu không sôi lên sùng sục thì cũng tràn trề thất vọng, vì không thấy có ai đứng ra bênh vực. Tóm lại, khả năng “chết” về mặt nghệ thuật là có thật!

Viết đến đây, lại nhớ sự kiện diễn ra cách đây mười năm, đó là khi tập truyện ngắn nọ vừa ra đời đã được một nhà văn nổi tiếng khẳng định: “đánh dấu mốc khởi đầu của một thời kỳ mới”, và “cũng có lẽ một trong những dấu hiệu đáng tin cậy để nhận ra một tài năng văn học là đọc họ ta cảm thấy cứ như bằng trực cảm, bằng một thứ ăng ten riêng, dường như họ nhận ra được, truyền đến cho chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về con người, về xã hội, về đất nước thậm chí về số phận dân tộc mà chính họ về luận lý cũng không nói ra cho rõ được”, tác giả tập sách là “một tài năng như vậy”. Rồi như để chứng tỏ khả năng ban phát tụng ca không kém cạnh, một nhà phê bình nổi tiếng viết: “cái truyện đứng tên chung cả tập là rất tiêu biểu. Nó đầy tượng trưng, đầy ám ảnh. Nó là cả một thời đại, một lịch sử, một thân phận lớn”, tác giả “đã tự mở cho mình một đường riêng vào văn chương”. Một ông họa sĩ cũng nhập cuộc với cách bình loạn như: “Sự táo bạo của một nhà văn nữ chưa đến tuổi 30 khi đề cập đến vấn đề tính dục khiến nhiều người shock nặng. Chị rất được đánh giá cao về văn phong cũng như ý tưởng dữ dội về việc nhìn lại quá khứ nhằm tháo bỏ những giá trị ảo, những ám ảnh trói buộc đeo đẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến những người trẻ không thể thoát ra và đi về tương lai”. Hoành tráng hơn, từ tập truyện ngắn này, một nhà giáo đi đến chỗ cả quyết về “quyền lực của một cô gái” và tác giả sánh ngang tài với Sagan, Vệ Tuệ!...

Khen thiếu xác đáng, khen lấy được, khen bằng cảm tính, khen từ tình bằng hữu, khen mà không cần đọc - xem - nghe, khen bất chấp các tiêu chí tư tưởng - nghệ thuật,… thì xét đến cùng chưa chắc đã thể hiện một thiện chí, mà nhiều khi lại là… “khen cho nó chết”!

Song hành cùng vô số lời có cánh của các đàn anh, là trả lời phỏng vấn của tác giả với các tâm sự đại loại như: “Tôi thường chậc lưỡi một mình: Đã xa rồi ơi Nguyễn Huy Thiệp, ơi Bảo Ninh, ơi Phạm Thị Hoài, ơi Vàng Anh”, “tự biết mình viết văn bằng linh cảm”, “là người rất bướng bỉnh, ngay từ nhỏ đã rất bướng bỉnh, thích làm gì thì làm bằng được, ít khi nghe ý kiến của ai lắm”, “Lý trí mách bảo tôi không nên viết văn, không được viết văn, nhưng hố thẳm tận cùng trong lòng kiếp người đơn độc không tuân theo lý trí. Tôi viết như một thôi thúc, dù đôi khi thôi thúc bất thành, chỉ thấy mình viết trong những giấc mơ”,… Để rồi mười năm sau, không rõ “linh cảm” đã vơi mỏng hay biến đâu mất, mà chỉ thấy “tài năng văn học” được báo chí giúp duy trì tiếng tăm qua việc thi thoảng công bố một bài phỏng vấn hầu như lặp đi lặp lại đến nhàm chán chuyện về chồng con, chuyện sinh nở, chuyện cuộc sống nơi xứ người, hoặc giãi bày: “Bởi tôi không những điên, mà còn là một kẻ đa nhân cách. Biết chăm con, biết lái xe, biết trả giá khi mua hàng ngoài chợ... thì cũng khá bình thường phải không nào? Nhưng hễ bất chợt đọc báo lá cải miêu tả mông cô Ngọc Trinh rất đẹp, thì một phần con người tôi đã chui xuống “hầm mộ” để kể chuyện oan hồn. Nên một bên não tôi kể chuyện luật sư đanh thép trước tòa, một bên não vẫn phủ đầy cái mông cô Ngọc Trinh. Rất nhiều khi tôi vừa xem ti vi vừa viết văn là vì thế”. Không biết tác giả vừa xem ti vi vừa viết ra cái gì mà tác phẩm vẫn lấp ló đâu đó ở phía chân trời, dù thi thoảng lại thấy khoe: tiểu thuyết này “viết xong nhưng rồi lại gỡ ba chương ra viết lại. Dự định cuối 2005 ra mắt nhưng không kịp”, tiểu thuyết kia “hiện được rất nhiều nhà xuất bản đặt vấn đề. Nhưng tôi cũng đã cảnh báo trước với họ, đừng hy vọng lập lại kỳ tích…”?!

Gần như cùng thời điểm với nhà văn trên, văn đàn cũng xôn xao về cây bút trẻ đưa lên mạng hàng nghìn bài thơ, và xuất bản một cuốn tiểu thuyết mà bằng đôi mắt tinh tường, một nhà văn khá nổi tiếng đọc thấy: “vừa dày dạn từng trải vừa hồn nhiên ngây thơ. Nhiều trang triết luận đạt đến độ chín bên những trang còn tươi tắn học trò. Cái hăm hở hào hứng muốn chi dùng trí tuệ và sức trẻ vào việc có nghĩa bên cái trầm lắng ưu tư của người từng trải biết thỏa hiệp biết cảm thông. Những ý tưởng chỉ có người trẻ hôm nay mới chạm tới được bên những tư tưởng thẩm thấu từ triết gia của nhiều thời đại”, rồi cho rằng có người gọi cây bút trẻ nọ là thiên tài “không phải là họ không có lý”! Và không phải tốn công lục tìm, chỉ cần gõ tên tác giả vào Google là gặp những lời vàng ngọc người ta dành cho cây bút bút trẻ này, nào là “thi tài tuổi 20”, nào là “thiên tài đã đi qua nửa mùa trăng không còn tròn trịa nhưng vẫn tươi sáng. Cái hồn nhiên chân thật của người mê mải giữa đời thơ vẫn thấm đẫm, thế nên, lắm khi viết thơ cứ dễ dàng như không”, nào là “muốn hiểu tâm hồn của một thiên tài…, hoặc những bài thơ “như một thứ năng lượng trị liệu”, thì tốt nhất là nên tìm đọc” tập thơ cây bút này mới xuất bản. Và quả thật đáng tiếc, tương tự như cây bút nữ nọ, lâu nay không thấy “thiên tài” xuất đầu lộ diện. Không rõ mấy cây bút đã từng đưa anh đến tận mây xanh nay có lưu luyến, băn khoăn, hay “đôi mắt xanh” của họ đang bận bịu tìm kiếm, phát hiện và tạo dựng cơ hội được ca ngợi “thiên tài” khác?!

Vốn không có thói quen dẫn lại điều mình đã viết trước đây, nhưng với hiện tượng “khen cho nó chết!”, tôi đành dẫn lại ý kiến công bố mười năm trước khi đề cập tới nữ nhà văn kể trên: nếu chị “có một sự nghiệp văn chương thì sự nghiệp ấy đang ở trước mặt chứ không ở những gì chị đã viết. Trong bối cảnh đó, thiển nghĩ những nhà văn, nhà phê bình khả kính cũng cần (nên) thận trọng, có thể khen ngợi mặc lòng, song đừng “bắt” tác giả phải “leo” lên các thang bậc mà bản thân tác giả chưa có khả năng leo tới”. Xem ra ý kiến về nữ nhà văn ít nhiều đã chứng nghiệm, bởi từ đó đến nay ngoài mấy bài phỏng vấn, chưa thấy chị công bố tác phẩm nào. Riêng điều thiển nghĩ với các nhà văn, nhà phê bình xem ra lại không có ý nghĩa, vì mười năm nay đời sống nghệ thuật ngày càng nhiều hơn những chữ nghĩa tâng bốc, tán dương. Những “lời có cánh” vẫn bay phần phật trên văn đàn, gần đây nhất phải kể tới sự kiện tại hội thảo tác phẩm của nhà văn nọ, một nữ học giả cho rằng tác phẩm của nhà văn “đã đi đến tận cùng nhân loại”, sau lại chữa thành: “đã đi đến tận cùng dân tộc và do đó ông gặp nhân loại”! Chẳng biết “tận cùng dân tộc” ở đâu, càng chẳng biết “tận cùng nhân loại” ở chỗ nào, tôi chỉ băn khoăn với câu hỏi khi đặt tác phẩm của nhà văn vào chỗ “tận cùng” ấy, liệu học giả nọ có định đẩy tác nó vào chỗ “tận cùng” không còn đường ra? Tôi lại thiển nghĩ, nếu thực sự tâm huyết với nghệ thuật nước nhà, kính mong các văn nghệ sĩ nổi tiếng, các nhà phê bình nổi danh nên tiết kiệm lời khen, cần khen cho đích đáng. Vì ý kiến của họ thường được coi như là bảo đảm cho tác phẩm, tác giả. Nên khen thiếu xác đáng, khen lấy được, khen bằng cảm tính, khen từ tình bằng hữu, khen mà không cần đọc - xem - nghe, khen bất chấp các tiêu chí tư tưởng - nghệ thuật,… thì xét đến cùng chưa chắc đã thể hiện một thiện chí, mà nhiều khi lại là… “khen cho nó chết”!

Nguyễn Hòa

12-2015