Giải bài toán nước sạch cho nông thôn
Nước sạch không chỉ là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, mà còn là những yếu tố nền tảng góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân nông thôn, đảm bảo môi trường sống lành mạnh, an toàn cho sản xuất. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay, tỷ lệ người dân sử dụng nước đạt quy chuẩn hiện đang ở mức thấp.
Hiệu năng công trình còn hạn chế
Báo cáo tại Diễn đàn “Vai trò của nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn trong phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn văn minh” vừa được tổ chức tại TPHCM, ông Lương Văn Anh - Phó Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, hiện toàn quốc có 68% hộ dân nông thôn được sử dụng nước đạt quy chuẩn, gồm: 60% số hộ sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung và 8% số hộ từ cấp nước hộ gia đình, còn lại 52% vẫn phải dùng nguồn nước từ công trình quy mô hộ hoặc nhóm hộ.
Tuy nhiên, tại một số tỉnh vẫn còn tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn còn rất thấp so với mặt bằng chung cả nước như: Hà Giang chỉ 7,7%, Gia Lai 7,7%, Yên Bái 11,4%, Cao Bằng 12,6%, Lâm Đồng 12,8%, Điện Biên 13,5%. Đặc biệt, vùng miền núi phía Bắc và vùng Tây Nguyên có tỷ lệ hộ gia đình nông thôn sử dụng nước đạt quy chuẩn thấp nhất so với trung bình toàn quốc.
Một thống kê khác của Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cũng cho thấy, cả nước có hơn 18 nghìn công trình cấp nước tập trung, trong đó có 7.800 công trình có quy mô công suất trung bình. Số công trình kém bền vững và không hoạt động chiếm gần 42%, điều này đã ảnh hưởng đến khoảng 200.000 hộ, chủ yếu ở nông thôn. Cũng theo ông Văn Anh, có 32% công trình hoạt động bền vững; hơn 26% công trình hoạt động tương đối bền vững; 27% công trình kém bền vững và gần 15% công trình không hoạt động.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp, cho rằng, nguyên nhân của những hạn chế trên đầu tiên phải kể đến nguồn lực đầu tư cho cấp nước nông thôn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, trong khi nguồn lực xã hội chỉ huy động được ở khu vực đồng bằng, tập trung đông dân cư, thiếu giải pháp thỏa đáng để thúc đẩy nguồn lực này cho khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, hệ thống chính sách về cấp nước chưa được hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thống nhất, tính hiệu quả trong thực tiễn chưa cao. Hay như mô hình tổ chức quản lý khai thác công trình nước sạch tập trung khu vực nông thôn đa dạng nhưng chưa có quy định cụ thể. Giá nước thấp, thu không đủ bù chi, thiếu kinh phí hỗ trợ theo quy định... dẫn tới tỷ lệ công trình hoạt động kém hiệu quả, ngừng hoạt động còn cao, chất lượng dịch vụ thấp.
Bổ sung vào những nguyên nhân hạn chế, ông Lương Văn Anh, cho hay, có nhiều công trình mới hoàn thành trong thời gian gần đây nằm trong các dự án lớn, song việc hướng dẫn để đảm bảo hiệu quả, tính bền vững và đầu tư theo đúng nhu cầu người dân vẫn chưa được ban hành đầy đủ. “Mô hình do UBND xã, cộng đồng quản lý khai thác chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 72%. Trong khi trình độ, năng lực quản lý khai thác còn hạn chế, nguồn lực đầu tư cũng thiếu nhiều, cụ thể nhu cầu của giai đoạn 2021-2025 cần 29,2 nghìn tỷ đồng nhưng kế hoạch được chi 12,2 tỷ đồng, còn thiếu khoảng 16 nghìn tỷ đồng” - ông Văn Anh thông tin.
Vẫn còn nhiều thách thức
Để nâng tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch lên 80% vào năm 2030, ông Châu Văn Tùng - Phó Giám đốc Trung tâm Nước sạch nông thôn tỉnh Vĩnh Long, đánh giá, con đường phía trước vẫn còn thách thức, tập trung về nguồn vốn, đào tạo nhân lực và an ninh mạng. Ông Tùng đề nghị, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện hơn về chính sách, nguồn vốn; đồng thời, các đối tác công nghệ tăng cường hợp tác để phát triển các giải pháp phù hợp với hiện trạng cấp nước nông thôn.
Theo ông Tùng, công tác chuyển đổi số tại đơn vị hiện mới chỉ đang ở bước đầu, vì hoạt động cấp nước chủ yếu tại nông thôn nên nhận thức, độ tiếp cận thông tin của người dân còn tương đối hạn chế.
Ông Lương Văn Anh cho rằng, để nâng tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch, cần sự tham gia đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, trong đó trọng tâm là thu hút đầu tư xã hội hóa vào lĩnh vực cấp nước nông thôn.
Tại các địa phương, khi công trình bị hư hỏng như do bão lũ gần đây, các địa phương chủ động phối hợp, huy động nguồn vốn để sửa chữa, khắc phục, đơn vị vận hành khai thác cũng chủ động bố trí kinh phí để đảm bảo hoạt động cấp nước không bị gián đoạn.
Về công tác quản lý, các đơn vị cấp nước và cung cấp nước sạch cho người dân, ông Lương Văn Anh cho biết, sẽ tổng hợp ý kiến khi UBND tỉnh bàn giao các công trình do nhà nước đầu tư sang đơn vị tư nhân quản lý, theo đúng quy định của Luật Đấu thầu. “Việc phát triển nước sạch nông thôn gắn với chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu tất yếu của thời đại mà còn là giải pháp then chốt hướng tới mục tiêu xây dựng nông thôn bền vững, văn minh” - ông Lương Văn Anh nhấn mạnh.
Đại diện Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, mong muốn, thông qua ứng dụng công nghệ số trong quản lý, giám sát, vận hành hệ thống cấp nước, cần nâng cao hiệu quả đầu tư, đảm bảo công bằng trong tiếp cận nước sạch và bảo vệ tài nguyên nước. Đây chính là nền tảng để nâng cao chất lượng sống người dân nông thôn, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “nông thôn mới thông minh - nông thôn đáng sống” trong giai đoạn tới.